Trước những hành vi gây nguy hiểm, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của xã hội, tội phạm sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật. Trách nhiệm hình sự (TNHS) chính là một dạng trách nhiệm pháp lý mà tội phạm phải chịu cho hậu quả của hành vi phạm tội đã thực hiện. Tuy nhiên có những trường hợp, tội phạm sẽ được miễn trừ trách nhiệm hình sự. Vậy trường hợp nào được miễn trừ trách nhiệm hình sự?
Mục lục bài viết
Những trường hợp nào được miễn trừ trách nhiệm hình sự
Miễn trừ trách nhiệm hình sự là một trong những chế định quan trọng trong bộ luật hình sự, thể hiện sự nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta thông qua việc xóa bỏ hậu quả pháp lý, miễn trách nhiệm pháp lý mà đáng ra tội phạm phải chịu cho những hành vi nguy hiểm, ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển của xã hội mà mình đã gây ra. Những trường hợp miễn trừ trách nhiệm hình sự đã được quy định rõ ràng trong Bộ luật hình sự năm 2015, cụ thể như sau:
► Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn TNHS về tội định phạm;
► Trong khi đang tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử thì có sự thay đổi về chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
► Khi có quyết định đại xá;
► Người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì được miễn TNHS;
► Người phạm tội đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
► Những vụ án hình sự (về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của BLHS năm 2015) đã được khởi tố theo yêu cầu của bị hại hoặc của người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết; nếu người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm, thì vụ án phải được đình chỉ (trừ trường hợp người rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức).
Những trường hợp có thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự
Bên cạnh những trường hợp được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, Đảng và Nhà nước ta còn đưa ra những trường hợp có thể xem xét để miễn truy cứu trách nhiệm hình sự. Các trường hợp đó cụ thể như sau:
► Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
► Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
► Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận;
► Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự;
► Người dưới 18 tuổi phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật hình sự và thuộc một trong các trường hợp sau đây thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự:
- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp phạm phải một trong các tội: Cố ý gây thương tích, hiếp dâm, cướp giật tài sản, sản xuất trái phép chất ma túy, tàng trữ ma túy trái phép, chiếm đoạt chất ma túy.
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật hình sự trừ những trường hợp phạm phải tội: giết người, cố ý gây thương tích; hiếp dâm; hiếp dâm người dưới 16 tuổi, cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi, cướp giật tài sản, sản xuất trái phép chất ma túy, tàng trữ trái phép chất ma túy, vận chuyển trái phép chất ma túy, mua bán trái phép chất ma túy, chiếm đoạt chất ma túy.
- Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án.
► Người nào trồng cây thuốc phiện, cây coca, cây cần sa hoặc các loại cây gây nghiện nếu chủ động phá bỏ hoặc giao nộp cho cơ quan chức năng trước khi thu hoạch sẽ có thể được miễn trách nhiệm hình sự
► Người đưa hối lộ không phải do ép buộc nếu chủ động khai báo trước khi bị phát giác sẽ có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được hoàn trả một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.
► Người môi giới hối lộ nếu chủ động khai báo trước khi bị phát giác thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
► Người không tố giác nhưng đã có hành động can ngăn hoặc hạn chế tác hại của tội phạm thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Trên đây là những trường hợp được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự và những trường hợp có thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Hi vọng với những thông tin trên, các bạn đã có thêm nhiều hiểu biết các trường hợp sẽ được miễn trách nhiệm hình sự. Tuy đưa chế định về miễn trừ trách nhiệm hình sự để thể hiện sự khoan hồng, bao dung của mình nhưng đối với những tội phạm nguy hiểm, Đảng và Nhà nước ta sẽ đưa ra những biện pháp cũng như hình phạt xử lý xác đáng.